Thứ Năm, 22 tháng 8, 2013

khá là hot Sự tích hợp của sách giáo khoa.

Nếu không có những người thầy tâm huyết, trí óc sẽ không có những tư cách, những tuấn kiệt cho giang sơn. Cũng có rất nhiều tiêu chí được đặt ra với loại sách này. Nếu chỉ quan tâm đến việc viết lại sách sẽ không giải quyết được vấn đề gì… Như vậy, vấn đề đặt ra là xây dựng nội dung chương trình dạy học phải theo hướng giảm tải, kết cấu đồng bộ, hợp lý giữa giáo dục nhân cách, lối sống với giáo dục kiến thức - văn hóa - khoa học - công nghệ, giáo dục tư duy sáng tạo, kỹ năng sống, kỹ năng thực hành.

Trong một cuộc giải đáp phỏng vấn báo chí, GS. Thuật ngữ SGK còn được hiểu là một loại sách chuẩn cho một ngành học.

Cái hay ở chỗ là chỉ cần một bộ SGK in đen trắng trên giấy xấu đã được nhiều đời trong một gia đình gìn giữ, chuyền tay nhau học tập. Tiếp đó, sau 4 năm phóng thích miền Nam thống nhất giang sơn, năm 1979, nhằm thống nhất nền giáo dục chung cho cả nước, cuộc canh tân giáo dục lần thứ ba được tiến hành với việc xây dựng hệ thống giáo dục phổ biến 12 năm.

Học sinh Việt Nam cần có một chương trình đào tạo mới và bộ SGK tích hợp những tri thức cơ bản, những giá trị văn minh của dân tộc và nhân loại, được xây dựng một cách có hệ thống mang tính đặc thù, đáp ứng mục tiêu đào tạo nguồn nhân công của đất nước chứ không phải là sự chắp vá, vay hay áp đặt một cách thô thiển công nghệ giáo dục từ các nước khác.

Lần cách tân SGK thứ tư tiến hành vào năm 2002 được thực hiện một cách bài bản hơn: Xây dựng chương trình, soạn tài liệu dạy thể nghiệm rồi mới làm SGK chính thức.

Thứ nhất, việc xây dựng chương trình học còn thiếu nhiều kiến thức, kể cả thiếu một số môn then chốt về khoa học tư duy, về kỹ năng sống, khả năng sáng tạo. Sự nghiệp giáo dục đối với Việt Nam không chỉ là động lực cho kinh tế mà còn là nguyên tố để chấn hưng văn hóa, giữ giàng và phát huy các giá trị Việt Nam.

Không ít kinh nghiệm soạn SGK của nước ngoài đã được tiếp thu và theo một nhà giáo dục học thì có đến 500 nhà khoa học đã dự biên soạn và thẩm định bộ SGK này.

Thế nhưng chúng ta đã không làm được điều ấy nên tri thức bị phân khúc, tách rời, gián đoạn. Theo Đại tự vị tiếng Việt (Nguyễn Như Ý chủ biên), SGK là sách soạn theo chương trình, dùng để dạy và học trong trường phổ quát. Tại sao bộ SGK được xây dựng công phu với sự tham gia của đông đảo giới khoa học lại có kết quả như vậy? Vấn đề không chỉ là chuyện 3 cấp học với hàng chục môn, hàng trăm quyển sách, những chi tiết chưa chuẩn xác… mà là tư duy của những người làm quản lý giáo dục, những người làm SGK cứ bâng khuâng giữa dòng! Một nhà khoa học giáo dục đã chính trực nêu lên 6 vấn đề của SGK bây giờ.

Nếu không có cách nhìn hệ thống, tư duy khoa học là lộ trình cụ thể thì công cuộc canh tân giáo dục không chỉ như "dã tràng xe cát" mà còn để lại nhiều hệ lụy cho các đời người Việt trong mai sau.

Do đó, trước khi muốn viết lại sách để giáo dục thì nên cách tân lại phương pháp dạy và học, đổi mới định hướng cho chương trình, nội dung và phương pháp cho các bậc học. Vừa viết sách, vừa hình thành chương trình giáo dục trong bối cảnh khôn xiết khó khăn, nhưng nền móng tri thức từ những cuốn SGK ấy đã tạo nên nhiều tài năng phục vụ sự nghiệp phát triển giang sơn.

Tuy nhiên, sau một thời kì "lưu hành", SGK đã "phát lộ" nhiều bất cập và cho đến hôm nay, có thể thấy rằng SGK không chỉ là gánh nặng với học trò, với thầy, cô giáo mà còn kéo theo nhiều hệ lụy cho tầng lớp. Trong kháng chiến chống Pháp, với đích xây dựng một nền giáo dục thích hợp với chế độ mới, chúng ta đã tiến hành cuộc cách tân giáo dục trước hết. Từ đó đổi mới phương pháp dạy và học trên cơ sở coi người học là một chủ thể sáng tạo đầy tiềm năng để khêu gợi tiềm năng ấy mở ra và hoạt động trong mọi lĩnh vực của đời sống tầng lớp.

Theo đó, bộ SGK mới được viết cho chương trình giáo dục phổ quát 10 năm, thay vì 9 năm như thời kháng chiến. Đến năm 1956, sau hai năm "từng đoàn quân thắng lợi tiến về Thủ đô", để thống nhất nền giáo dục trong chiến khu kháng chiến và những vùng địch tạm chiếm, một cuộc canh tân giáo dục mới được tiến hành.

Có nhiều định nghĩa khác nhau về SGK, tựu trung có thể hiểu SGK là loại sách cung cấp tri thức, được soạn với mục đích dạy và học. Thứ sáu, việc lựa chọn khối lượng và tính chất các đơn vị tri thức đưa vào chương trình nhiều khi chưa có tính sư phạm, còn quá tải, sai thực tại… Một vị lãnh đạo của Bộ GD-ĐT cũng nhấn: Nội dung và phương pháp giáo dục lạc hậu, nặng về dạy chữ, gây hiện tượng quá tải không chỉ đối với học trò mà còn với công tác quản lý… Từ những vấn đề nêu trên có thể thấy cải tiến SGK là hết sức cấp thiết.

Để điều đó trở nên hiện thực thì không chỉ kiến lập cơ sở vật chất cho giáo dục - đào tạo mà còn phải đổi thay tư duy, nhận thức của những người thầy (bởi họ chính là cầu nối đưa mọi sự cách tân giáo dục đến với học trò).

Theo Phó Chủ tịch Tổ chức phát triển quốc tế chuyên nghiệp Pearson - Sherry Preiss, "một cuốn SGK phải sống và chuyển động, kiến tạo và sáng tạo những tri thức của người học, của đay và cộng đồng".

TS Trần con tạo, nguyên Bộ trưởng Bộ GD-ĐT cho rằng: Chúng ta phải đổi mới căn bản và toàn diện giáo dục, trong đó có rất nhiều việc phải làm chứ không phải chỉ có chằm chằm nghĩ đến chuyện viết lại SGK. Thôi thì dù thất vọng nhưng vẫn tiếp tục phải hy vọng! nền tảng nào để xây dựng bộ SGK chuẩn? Cho đến nay, đây vẫn là một câu hỏi chưa cho câu giải đáp chuẩn xác. Với một chương trình giáo dục không còn hợp với tầng lớp hiện đại, không bắt kịp với xu thế phát triển của thế giới thì dĩ nhiên phải thay đổi.

Những cuốn sách giáo khoa trước tiên viết mộc mạc, in trên giấy bản đã xuất hiện vào năm 1950. Nếu tìm hiểu tiến trình phát triển của ngành giáo dục nước nhà gần một thế kỷ qua, mỗi lần canh tân giáo dục phổ biến là một lần… thay đổi sách giáo khoa. Thứ ba, những tri thức dùng lối dạy đồng tâm, xuyên suốt các lớp là phương pháp có tính sư phạm cao, thành ra bộ SGK phải có một tổng chủ biên quán xuyến từ đầu đến cuối.

Chúng ta đang giáo dục con người theo cách bị động. Trong một thế giới hội nhập với sự vận động đến vô tận của tri thức, chẳng thể tiếp chuyện chạy đuổi để tạo ra những cỗ máy có thể nạp đầy kiến thức mà phải tạo ra những con người có khả năng làm chủ kiến thức, biết độc lập nghĩ suy và giàu khả năng tư duy sáng tạo, biết sống, cống hiến bằng trái tim, bằng trách nhiệm với giang san, với dân tộc.

Kinh nghiệm từ những lần cách tân giáo dục trong lịch sử cũng như những lần đổi thay SGK trước đây không cho phép biến những "cải tiến" trong giáo dục - đào tạo thành "cải lùi". Thứ năm, thiếu tính liên thông về tri thức.

Thứ hai, SGK giờ định vị không đúng vai trò của các môn học trong cấu trúc tri thức (ví dụ, ngoại ngữ có vai trò quan yếu trong đời sống hiện tại nhưng lại là môn tự chọn, đưa vào chương trình từ lớp 3).

Thế nên đổi mới giáo dục không thể tách rời việc cách tân sư phạm. Thế nhưng đổi thay ra sao, trên nền móng nào, thực hành vào thời khắc nào… lại là cả vấn đề. Đặc biệt, phải xác định rõ đích giáo dục và việc đổi mới SGK là công đoạn rút cuộc trong quá trình đổi mới toàn diện hệ thống giáo dục. Với chức năng tự thân, SGK có vai trò đặc biệt quan yếu trong tiến trình nhận thức của học sinh, chứa đựng hàm lượng cơ bản nhất về tri thức và là nền tảng của tư duy sau này của đời người.

Một vấn đề nữa, đổi mới giáo dục đào tạo phải được đặt trong tổng thể nền kinh tế - tầng lớp và những dự báo phát triển trong ngày mai. Đã quá nhiều năm chúng ta kỳ vọng vào một bộ SGK chuẩn trong thời kỳ hội nhập, nhưng rồi vẫn thất vọng đến tận bây chừ.

"Muốn thắng trong kinh tế, trước hết phải thắng trong giáo dục", chúng ta cần hình thành một triết lý giáo dục riêng mang đặc thù Việt Nam và định hình rõ mục tiêu giáo dục.

Ba cuộc canh tân giáo dục phổ quát đã làm tròn sứ mạng trong những tuổi lịch sử khăng khăng. Thứ tư, SGK bây chừ thiếu tính xuyên môn trong cấu trúc chương trình.

Một lần nữa, SGK lại được "xới" lên với hàng loạt vấn đề như: Quá nặng về kiến thức nhưng càng ngày càng xa vắng thực tại và không khuyến khích được tư duy sáng tạo của học trò; nội dung thay đổi và cải cách quá nhiều trong thời gian ngắn; khâu tổ chức soạn cũng có không ít vấn đề… Câu chuyện SGK với những khiếm khuyết hoặc quá thừa không chỉ làm hoang phí tiền nong, thời gian mà còn đặt lên vai học trò, thân phụ những sức ép không đáng có.

Chủ chốt của giáo dục là dạy người và dạy làm người.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét