Thứ Bảy, 19 tháng 10, 2013

Pete Sampras phá cách & câu chuyện cải lão hoàn đồng.

Sampras thua cả những đối thủ tầm thường ở Australian Open (vòng 4 năm 2001 và 2002

Pete Sampras & câu chuyện cải lão hoàn đồng

3-6. Sampras cũng bị coi là hết thời khi anh thất bại. 6–4) trên sân số 2 tại Wimbledon 2002. Đồng hương Andy Roddick đang là số 11 thế giới ở tứ kết (6-3. Roland Garros (vòng 2 năm 2001 và vòng 1 năm 2002) và cực điểm là tại Wimbledon. Nặng nề và tuồng như không còn sự khao khát. Khi ấy Sampras chỉ là hạt giống số 17 khi dự giải Grand Slam cuối cùng trong mùa giải 2002 trên sân nhà.

Sampras bắt đầu tuột dốc khi mới 29 tuổi. Chỉ là cái đầu. Chứ không chỉ “serve & volley” hay “chip & charge” như thời Sampras thống trị.

Tay vợt người Hà Lan Sjeng Schalken ở bán kết (7-6(8-6). Thử thách bắt đầu ở vòng 3 khi Sampras gặp tay vợt người Anh Greg Rusedski và phải mất 5 set kịch tính (7-6(7-4). Sampras tìm lại Annacone và hồi sinh lần rốt cuộc ở US Open 2002 Khi đôi tay và đôi chân không còn nghe theo cái đầu.

Sau những thất bại liên tục ở những giải đấu. Hủy hợp đồng với Hiệp hội tennis Mỹ để trở lại bên cạnh Sampras. Thì những nghĩ suy của Sampras cũng trở thành rối loạn. Đến mức hãng đồ thể thao đồ sộ Nike còn chối bỏ cả cái tên huyền thoại của tennis thế giới và Sampars thậm chí phải thi đấu ở Australian Open 2001 với một chiếc áo trắng tinh không có logo của nhà tài trợ.

Mà sau này anh cũng hối hận vì chuyện đó. Để rồi lại tìm đến Annacone cầu xin sự trợ giúp. Sự nghiệp của Pete Sampras đã có lúc tưởng như rơi xuống vực thẳm sau khi nhận những kết quả bạc trong hai năm cuối sự nghiệp.

Thắng lợi đó như mang lại niềm hứng khởi cho Sampras. Rồi thất bại trước Marat Safin và Lleyton Hewitt

Pete Sampras & câu chuyện cải lão hoàn đồng

7-5). Và đi tới quyết định. Thật may mắn. 4-6. 3–6. Annacone giúp Sampras tin rằng anh vẫn là huyền thoại và chơi thứ tennis bản năng gốc với một cái đầu thoải mái. 7-6(7-3). Những tay vợt trẻ mới nổi và đều trở nên số 1 thế giới sau này. Để tất phải nhớ tới cái tên Pete Sampras.

Tại vòng 4 năm 2001 trước chính Federer và vòng 2 năm 2002. Tennis đầu thế kỷ 21 cũng thay đổi.

Sampras bước vào trận chung kết US Open 2002 gặp kỳ phùng địch thủ Andre Agassi. Thậm chí họ còn tự tín có thể giành thắng lợi trước một tay vợt đã chậm chạp. Độ tuổi mà thực tế cũng chưa phải là dấu chấm hết cho sự nghiệp của một tay vợt. Nơi mệnh danh là “Mồ chôn của những số 1”.

Sampras mất hai ngày chỉ trò chuyện với vợ của anh. Đỉnh cao và xế chiều. Kỷ lục cho tới khi bị Federer soán ngôi. Sampras hồi sinh ở tuổi 31 Tennis cũng như cuộc thế.

Không tay vợt nào không qua những thời điểm ấy. 6-7(5-7). Thất bại lịch sử trước tay vợt vô danh George Bastl – người mà ít ai biết là đồng hương của Federer

Pete Sampras & câu chuyện cải lão hoàn đồng

Lần trước nhất Sampras đã nghĩ tới hai chữ: Giải nghệ.

7-6(7-4). Sau khi trở thành “Vua sân cỏ” (và mãi sau này mới có Roger Federer sánh ngang) với 7 chức vô địch trong vòng 8 năm trong khoảng thời gian từ năm 1993 đến 2000. Và kết thúc sự nghiệp lẫy lừng của mình trên đỉnh cao. 6-4) mới có mặt ở vòng 4. Và Sampras chẳng thi đấu giải nào nữa và chờ cho tới trước thềm US Open 2003 mới tuyên bố giải nghệ.

Sampras trong thất bại lịch sử tại Wimbledon 2002 Ngay cả khi Sampras vẫn đi tới hai trận chung kết US Open liên tục vào năm 2000 và 2001. Lối chơi giàu thể lực và sự đa dạng hơn.

6-4. Ngay cả khi anh tới US Open 2002 với những lời bàn tán về ngày Sampras gác vợt đã tới. Một lần nữa gọi điện thoại để hy vọng Paul Annacone lượng thứ.

6-4) và Kristian Pless của Đan Mạch ở vòng 2 (6-3. Vấn đề không phải là đôi chân. 6-4) để giành Grand Slam thứ 14 trong sự nghiệp. Sampras cũng bỏ ngoài tai lời khuyên của huấn luyện viên người Tây Ban Nha Jose Higueras. Vị huấn luyện viên kỳ tài ấy đã ưng.

Đó là lần thứ 34 Sampras và Agassi đối đầu và như trong ngày còn đang thâu tóm thế giới. Nơi Sampras trở thành huyền thoại. 4–6. Đôi tay hay những kỹ chiến thuật.

Bỏ cây vợt nhỏ 85 inch vuông sang cây vợt lớn hơn. Để tay vợt từng 286 tuần giữ vị trí số 1 thế giới đánh bại người đàn em Tommy Haas người Đức đang là số 3 thế giới (7-5

Pete Sampras & câu chuyện cải lão hoàn đồng

Bridgette Wilson – Miss Teen nước Mỹ năm 1990. Đánh bại Albert Portas của Tây Ban Nha ở vòng 1 (6-1. 5-7. 6–2. 6-4. 6-4). Sampras không có thêm một Grand Slam nào và bất cứ ai cũng có thể nhận định: Thời của Sampras đã hết! Những đối thủ từng run rẩy trước Sampras đã không còn e sợ mỗi khi gặp anh.

Tay vợt người Mỹ sa thải huấn luyện viên Paul Annacone cuối năm 2001 và sau này mới nhận ra đó là sai trái lớn nhất của mình. Có khởi đầu. 6-2. Để thua George Bastl đánh bại sau 5 set (6–3.

6-4). Đó chỉ là hệ quả của một thời đoạn sa sút trầm trọng của Sampras. 6-2).

7-5. Mặt sân chậm hơn. Sampras đánh bại Agassi trong 4 set (6-3. Người vẫn còn đang giữ vị trí thứ 6 thế giới. Thì người ta cũng không tin anh trở lại. 6-4. Hơn hai năm trời kể từ Grand Slam thứ 13 tại Wimbledon 2000. Sampras đã hồi sinh khi tuốt đã quên anh. Từ một tiếng tăm mang cho Nike hàng trăm triệu USD doanh thu đồ thi đấu.

Sampras đăng quang tại US Open 2002 trước khi giải nghệ Sampras qua hai vòng đầu tiên trót lọt.

Không có nhận xét nào:

Đăng nhận xét