Mối quan hệ của bà với Việt Nam được bắt đầu sau khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, năm 1978, khi lần đầu bà có mặt tại nước ta. Kể từ ngày đó, bà đã có hơn 120 lần sang thăm Việt Nam với tư cách Chủ tịch Ủy ban Y tế của Ủy ban Hoa Kỳ về cộng tác khoa học với Việt Nam. Trong lĩnh vực này những gì bà đã làm thật là vô bờ bến. Nhưng ngoài y tế, những gì bà làm cho Việt Nam, cho sự hiệp tác giữa Việt Nam và Hoa Kỳ còn thật nhiều, như một số những người có mặt tại lễ truy điệu hôm đó có nhịp phát biểu đã nói. Đó là sự cộng tác sâu rộng với khoa học Việt Nam như giáo sư Nguyễn Văn Hiệu san sẻ. Đó có thể là việc xách tay bộ phimBao giờ cho đến tháng 10sang Mỹ dự Liên hoan phim quốc tế Hawaii... Đây là lần trước tiên trình chiếu phim Việt Nam ở Mỹ, để rồi được giải thưởng như đạo diễn Đặng Nhật Minh hồi ức. Đó có thể là một người dân cày bị què chân và ung thư ở miền Nam ngẫu nhiên gặp bà và được bà tương trợ chân giả, và sau đó là giúp chữa trị bệnh ung thư để rồi có thể lấy vợ, đẻ con. Và cũng có thể là một ông bố, làm hải quan ở Hải Phòng, có con bị bệnh máu trắng được bà tìm cho nơi chữa bệnh bên Mỹ và cứu sống bé...Rất nhiều câu chuyện như thế được kể lại hôm đó biểu lộ tấm lòng của một nhà khoa học, của một con người với những con người, dù họ có thể đã từng ở hai nhà nước đối địch nhau trong trận chiến. Và tôi bất chợt nhớ lại những năm tháng gian nan sau chiến tranh một phần phong thái kỷ trước, khi đó tôi đang còn công tác tại một viện nghiên cứu thuộc lĩnh vực khoa học tầng lớp. Dù đã là năm 1988 sau Đổi vừa rồi, nhưng đời sống vẫn khó khăn mà hoạt động khoa học cũng vẫn vô cùng khó khăn: những cán bộ trẻ tuổi 30 chúng tôi cầm cố tìm cách tiếp xúc với khoa học thế giới. Cửa ra cho khoa học xã hội chỉ là đường đi sang Nga và một số nước XHCN khác: hết sức chật hẹp vì có quá nhiều người muốn sang đó, học thì một phần nhưng buôn bán làm ăn là phần đông hơn. Và cũng khôn xiết trắc trở vì khoa học xã hội ở các nước XHCN lúc bắt đầu Perestroika (Đổi mới) có nhiều thiên hướng khác nhau, từ ca tụng hết lời những cái đã có đến phê phán cũng hết lời cũng những lý thuyết đó. Mà trên hết là nền khoa học xã hội ở đó có rất nhiều điểm khác với các nước khác trên thế giới. Làm thế nào hiện giờ? Vẫn là nỗ lực gửi thư đến các trường đại học lớn trên thế giới để tìm cách đặt quan hệ. Nhưng gửi thư đi rất khó khăn: không biết mất bao lâu mới đến và có đến hay không. Và thư đáp cũng không biết có tới hay không...Và tiền gửi cũng đắt mà cơ quan cũng chẳng có tiền để gửi thư nữa phải đợi duyệt từ phía Ủy ban KHXH đảm nhận mới có kinh phí. Nhớ lại vài năm trước đó mà ngại: khi tôi theo học ở Ấn Độ, một lá thư gửi về nhà đi mất 7 tháng và khi trở về nước thì người bạn gái lâu ngày không có tin đã đi tìm bờ bến khác rồi. Có một số mối quan hệ khác mới được bắt đầu với tổ chức dân số Liên Hiệp Quốc (UNFPA) nhưng thực thụ cũng chưa có gì kiên cố lắm vì khi đó có mấy ai trong giới khoa học biết đến Liên Hiệp quốc có những cơ quan gì ở đó đâu. Có một chuyện tức cười mà tôi còn nhớ mãi: hỏi ban quan hệ quốc tế rằng UNFPA là cơ quan nào thì họ mau mắn trả lời: các anh muốn nói đến UNESCO chứ gì !? Rồi một buổi sáng, có điện từ Ban quan hệ quốc tế báo tin có nhà khoa học người Mỹ, Judith Lasinsky, muốn đến thăm viện. Đúng giờ, một ngưòi đàn bà to béo xuất hiện, mang theo một số tạp chí và vui vẻ lắng nghe chúng tôi bộc lộ những mong muốn của mình. Cuộc nói chuyện diễn ra cởi mở, vị khách ghi lại tỷ mỷ những gì chúng tôi nói. Lúc chia tay, bà có nói là sẽ thảo luận với các nhà khoa học từng lớp Mỹ và nhiều người trong số họ đang rất quan tâm đến việc viện trợ cho Việt Nam. Câu chuyện tưởng như chỉ là thế thôi vì bà đến đó một mình, chẳng đại diện cho cơ quan quốc gia nào của Mỹ cả. Trong khi đó khi chúng tôi quan hệ với các đồng nghiệp từ các nước XHCN thì bao giờ cũng phải đúng quy trình: phải có viện đề xuất, có ban quan hệ quốc tế giới thiệu, ban tổ chức cán bộ xem xét rồi lãnh đạo Ủy ban KHXH cân nhắc. Trong những mối quan hệ khoa học đó chỉ thấy toàn là cơ quan với cơ quan. Vậy mà chỉ chừng nửa năm sau đã thấy có một giáo sư từng lớp học từ Mỹ tới theo lời giới thiệu của bà Lasinsky. Ông mang theo sách vở, thông tin về khoa học xã hội Mỹ và những đề nghị hiệp tác rất cụ thể: bàn thảo học giả, cử người đi tham quan và đào tạo, cùng tiến hành nghiên cứu và công bố kết quả, Sau đó là nhiều giáo sư khác nữa đến để rồi hơn hai năm sau, mùa xuân năm 1991 cán bộ trước tiên của viện, với vốn tiếng Anh rất là sơ khởi, lên đường làm tiến sỹ ở Mỹ. Bao lăm trục trặc đã xảy ra khi khai triển các quan hê khoa học với nước Mỹ, từ việc lấy visa vào Mỹ phải thực hành tại Bangkok, Thái Lan cho đến những giấy tờ hành chính khó hiểu phải điền vào để có thể theo học tại Mỹ, và mỗi khi quá khó chúng tôi đều nhờ bà Lasinsky hỗ trợ. Và hầu như lần nào bà cũng trợ giúp được. Còn giờ đây thì mỗi năm đã có hàng chục nghìn học trò, sinh viên Việt Nam sang Mỹ học tập và cũng có không ít sinh viên Mỹ sang thực tập ở nước ta. Một điều mà ngày xưa chúng tôi chẳng bao giờ dám nghĩ tới. Thời kì qua đi, mỗi khi nghĩ lại những năm tháng sôi động ấy trong việc thiết lập quan hệ Mỹ - Việt trong khoa học, tôi vẫn thấy bà Lasinsky đã làm cho tôi thấu hiểu được ba điều trong quan hệ với các nhà khoa học Mỹ. Trước tiên, mối quan hệ khoa học là mối quan hệ giữa những người làm khoa học với nhau. Ở họ có những mối quan tâm chung và trên căn bản đó, nhu cầu có quan hệ với nhau đến rất tự nhiên và rất vững bền.Trong khi mối quan hệ giữa các cơ quan, tổ chức khoa học có thể là cần, là hữu ích, nhưng không phải là thực chất nguyên thủy của mối quan hệ khoa học. Tiếp đó, sự quan hệ với giới khoa học Mỹ rất đơn giản, không cầu kỳ. Đã có nhiều hội nghị khoa học, người tham gia chỉ cố lo được vé tàu bay, còn sang đó sẽ ở nhà của chính các nhà khoa học và đi lại cũng là xe do chủ nhà chở. Cái mà các bạn Mỹ quan hoài đến chỉ là các ý tưởng khoa học mà mỗi người định san sớt. Và nếu có cái gì không biết thì xin cứ nói thẳng ra là không biết. Không hề có nét dáng quan phương, hình thức trong mối quan hệ với giới khoa học Mỹ. Rốt cuộc, mạng lưới khoa học My dựa trên sự kết liên tình nguyện những người làm khoa học tuy rất đơn giản nhưng lại vô cùng hùng mạnh và hữu hiệu. Màng lưới đó kiến lập lên một hệ giá trị rất là vững bền mà cộng đồng khoa học nhất loạt tuân theo. Tính lương thiện và chuẩn tắc của hoạt động khoa học bắt nguồn từ hệ giá trị này và sức mạnh kiểm soát hành vi của mạng lưới này rất lớn. Trong mạng lưới đó rát khó có chỗ cho sự lừa đảo và điêu trá, cho sự lừa đảo và háo danh giả khoa học. Thấu hiểu những điều này thì quan hệ với giới khoa học Mỹ trở nên rất đơn giản, rất dễ dàng. Có nhẽ nhờ học được điều này từ bà Lasinsky nên trong hơn 10 năm tiêp sau đó, khi tôi có thời cơ được lãnh đạo một viện nghiên cứu, mối quan hệ của viện chúng tôi với giới khoa học Mỹ là vô cùng thuận lợi: chẳng có đồng kinh phí nhà nước nào mà hàng chục người đi làm thạc sỹ, tiến sỹ ở những trường đại học ưu tú nhất của nước Mỹ, hàng chục đề tài hiệp tác khoa học được tiến hành, các công trình được ào ào công bố và sự hội nhập với thê giới rất thầm lặng và quá suôn xẻ. Và mỗi nhà khoa học Mỹ chân chính, như bà Lasinsky, đều thấm nhuần hệ giá trị đó và hành xử theo những nguyên tắc cao cả đó.Và việc bà Lasinsky, cùng những nhà khoa học Mỹ khác, viện trợ cho Việt Nam chỉ là sự phản ánh cái bản chất nhân văn thật của người Mỹ nói chung và nhà khoa học Mỹ nói riêng. Những bài học mà bà Lasinsky, “madam Việt Nam” hay “bà đại sứ trước hết của Mỹ ở Việt Nam”, như giới khoa học vẫn gọi bà thế, Có lẽ là cái người làm khoa học Việt Nam như tôi nhớ mãi.Và tôi nhiều khi vẫn tự hỏi mình phải chăng đấy là những nguyên tắc mà chúng ta nên đeo đuổi, nếu muốn xây dựng được một nền khoa học nước nhà hợp chuẩn với quốc tế. Xin cám ơn bà Lasinsky và cầu chúc cho linh hồn bà được phiêu diêu miền cực lạc! |
Chủ Nhật, 28 tháng 7, 2013
Đọng lại cho khoa học VN từ sự “ra đi” của một nhà khoa học Mỹ
Đăng ký:
Đăng Nhận xét (Atom)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét